Skip to main content

Đắk Mil – Wikipedia tiếng Việt


Đắk Mil là một huyện thuộc tỉnh Đắk Nông, Việt Nam, huyện lỵ là thị trấn Đắk Mil. Đắk Mil trước nằm trong tỉnh Đắk Lắk. Khi Đắk Nông được thành lập trên cơ sở tách ra khỏi Đắk Lắk, Đắk Mil nằm trong tỉnh Đắk Nông.





Huyện gồm 1 thị trấn: Thị trấn Đắk Mil.
9 xã: Đắk Sắk, Đức Minh, Long Sơn, Đắk Lao, Đắk R'La, Đức Mạnh, Đắk N'Drót, Đắk Gằn, Thuận An.



Đăk Mil là huyện nằm về phía Đông Bắc của tỉnh Đăk Nông với diện tích tự nhiên 682,99 km², cách Thị xã Gia Nghĩa 60 km theo đường quốc lộ 14. Phía bắc giáp huyện Cư Jút; Đông giáp huyện Krông Nô; phía Nam giáp huyện Đăk Song; Tây giáp tỉnh Moldulkiri; Vương quốc Campuchia.

Đăk Mil có 10 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 9 xã: Đắk Gằn, Đắk Lao, Đắk N'Drót, Đắk R'La, Đắk Sắk, Đức Mạnh, Đức Minh, Long Sơn, Thuận An và thị trấn Đắk Mil.

Diện tích tự nhiên là: 682,99ha, chủ yếu là đất đỏ badan, thích hợp với cây cà phê, hồ tiêu và nhiều loại cây nông, công nghiệp khác; trong đó đất lâm nghiệp 25.174 ha, đất nông nghiệp 36.872 ha, đất chưa sử dụng 2.472 ha.

Dân số trung bình huyện Đăk Mil là 98.805 người, mật độ dân số trung bình 144 người/km²; so với tỉnh Đăk Nông, huyện Đăk Mil là một trong những huyện có mật độ dân số khá cao.

Thành phần dân tộc của huyện Đăk Mil khá đa dạng: có tới 19 dân tộc anh em, người kinh có 14.314 hộ/64.474 nhân khẩu chiếm 80,08 dân số toàn huyện, dân tộc thiểu số tại có 1.346 hộ/7.135 khẩu chiếm 8,6% chủ yếu là dân tộc M’Nông, còn lại là dân tộc Ê đê (4 hộ/31 khẩu) và Mạ (1hộ/khẩu) dân tộc thiểu số khác 2.037 hộ/9.400 khẩu là đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn gốc từ các tỉnh miền núi phía bắc như: Tày, Nùng, Dao, H’ Mông…

Tôn giáo: Tính đến cuối năm 2008, trên địa bàn huyện hiện nay có 3 tôn giáo chính: Công giáo, Phật giáo và Tin lành. Tổng số tín đồ: 48.297 khẩu, chiếm 57% dân số toàn huyện. Trong đó: Công giáo: 38.045 khẩu, Phật giáo: 3.111 khẩu, Tin lành: 7.141 khẩu.



Hiện 1 cụm công nghiệp ở xã Thuận An (Đắk Mil) hiện chưa hoạt động có vốn đầu tư nhiều tỷ đồng (2009).

Tháng 9-1986, Đảng bộ huyện tiến hành Đại hội lần thứ VII trong bối cảnh đất nước bước vào công cuộc đổi mới. Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ là: Tập trung phát triển lâm nghiệp một cách toàn diện, phát huy tiềm năng của rừng và đất rừng, gắn phát triển lâm nghiệp với việc thực hiện công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc; Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, trọng tâm là sản xuất lương thực, coi đó là mục tiêu hàng đầu của Đảng bộ Huyện, phấn đấu đảm bảo cân đối được nhu cầu lương thực cho nhân dân trong huyện; Coi trọng phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; Phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế; Tăng cường an ninh, quốc phòng.

Sau 10 năm đổi mới (1986 - 1995), tình hình kinh tế, xã hội của huyện đã có những chuyển biến tích cực. Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá; đời sống vật chất tinh thần giữa các vùng đã có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, nạn đói được đẩy lùi; sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế đều có sự phát triển rõ rệt.

Trong giai đoạn 1996-2000, quá trình đổi mới kinh tế, xã hội của huyện Đăk Mil tiếp tục đạt được những thành tựu lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 8,6%/năm; trong đó nông, lâm nghiệp tăng 7%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 7%; dịch vụ tăng 23%. Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và đưa các giống mới có năng suất cao vào sản xuất, bình quân hàng năm sản lượng lương thực đạt 17.000 tấn. Đảng bộ và chính quyền huyện cũng chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các chương trình mục tiêu, dự án đầu tư nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc như chương trình 134, 135; tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng; thực hiện xoá đói giảm nghèo, nhờ vậy số hộ nghèo trên địa bàn huyện giảm đáng kể.

Trong giai đoạn từ 2000 đến nay, kinh tế của huyện phát triển với nhịp độ tăng trưởng khá. Hệ thống cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường trạm y tế được quan tâm đầu tư. Đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận quần chúng nhân dân được cải thiện đáng kể. Tình hình an ninh chính trị về cơ bản ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở không ngừng được củng cố, kiện toàn, vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp uỷ Đảng được nâng lên.

Đăk Mil là huyện có vị trí quan trọng về kinh tế, văn hóa, chính trị, quốc phòng an ninh của tỉnh Đăk Nông, nhân dân trong huyện giàu truyền thống yêu nước, có tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc anh em, nhân dân Đăk Mil nhất định sẽ vượt mọi khó khăn, xây dựng huyện ngày càng giàu về kinh tế, tiến bộ về xã hội, mạnh về chính trị, vững về an ninh - quốc phòng, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.



Sau năm 1975, huyện Đắk Mil có thị trấn Đắk Mil và 6 xã: Đắk Gằn, Đắk Lao, Đức Mạnh, Đức Minh, Thuận An, Thuận Hạnh.

Ngày 17-1-1984, chia xã Đức Minh thành ba xã lấy tên là xã Đức Minh, xã Đắk Sắk và Đắk Môl.

Ngày 24-3-1998, thành lập xã Đắk Song trên cơ sở 11.745 ha diện tích tự nhiên và 2.936 nhân khẩu của xã Thuận Hạnh; thành lập xã Đắk R'la trên cơ sở 10.204 ha diện tích tự nhiên và 4.143 nhân khẩu của xã Đắk Gằn.

Ngày 21-6-2001, tách 3 xã: Đắk Môl, Thuận Hạnh, Đắk Song để thành lập huyện Đắk Song, huyện Đắk Mil còn lại 7 xã: Đắk Gằn, Đắk Lao, Đắk R'la, Đắk Sắk, Đức Mạnh, Đức Minh, Thuận An và thị trấn Đắk Mil.

Ngày 26-11-2003, tỉnh Đắk Nông được tái lập, huyện Đắk Mil thuộc tỉnh Đắk Nông.

Ngày 6-6-2005, thành lập xã Đắk N'drót trên cơ sở 3.320 ha diện tích tự nhiên và 234 nhân khẩu của xã Đức Mạnh, 1.428 ha diện tích tự nhiên và 3.207 nhân khẩu của xã Đắk R'La.

Ngày 22-11-2006, thành lập xã Long Sơn trên cơ sở điều chỉnh 3.058 ha diện tích tự nhiên và 2.198 nhân khẩu của xã Đắk Sắk.



Cuối năm 2009. Đăk Mil đầu tư nâng cấp hệ thống đường giao thông trong thị trấn. Đồng thời nâng cấp và mở rộng tuyến quốc lộ 14.

Đăk Mil là huyện biên giới cửa khẩu Đăk Per thông thương với Campuchia, nằm trên Quốc lộ 14 chạy dọc các tỉnh vùng Tây Nguyên, cách thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đăk Lăk) 57 km về phía Tây Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 296 km. Ngoài ra Đăk Mil còn có quốc lộ 14C là tuyến giao thông quan trọng trong khu vực Tây Nguyên và hai tuyến đường tỉnh ĐT 683, ĐT 682; thông qua các tuyến đường này, Đăk Mil có thể kết nối với các huyện Cư Jut, Đăk Song, Tuy Đức, Krông Nô trong tỉnh Đăk Nông.

Như vậy Đăk Mil là huyện không những là cầu nối giữa các huyện trong tỉnh Đăk Nông mà còn là điểm giao lưu các tỉnh vùng Tây Nguyên và với nước bạn láng giềng Campuchia.

Hệ thống giao thông huyện Đăk Mil bao gồm 02 tuyến Quốc lộ 14 và 14C, 2 tuyến đường tỉnh ĐT 682 và ĐT 683, 8 tuyến đường huyện; 33 tuyến đường xã; 35 tuyến đường nội thị và 101 tuyến đường thôn buôn. Mật độ đường: 0,82 km/ km² và 6,92 km/103 (nếu không tính đường thôn buôn): 0,52 km/ km² và 4,4 km/103 dân).



Đăk Mil là huyện được hình thành khá sớm của tỉnh Đăk Lăk cũ từ năm 1936, với diện tích hơn 200.000ha, bao gồm một phần của huyện Cư Jút, huyện Krông Nô và huyện Đăk Song hiện nay. Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định khu vực Tây Nguyên, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập hệ thống chính quyền tay sai thực dân trên địa bàn Đăk Mil. Năm 1940, bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột, Pháp còn cho xây dựng thêm Ngục Đăk Mil (nay thuộc xã Đăk Lao), nhằm đày ải và tra tấn các chiến sĩ cách mạng. Ngục Đăk Mil đã từng giam những chiến sĩ cách mạng: Nguyễn Chí Thanh, Trần Hữu Dực, Nguyễn Tạo, Lê Nam Thắng, Trần Văn Quế, Trần Sâm, Trần Văn Quang…

Trong kháng chiến thời kỳ chống Pháp (1945 - 1954) huyện Đăk Mil là vùng địch tạm chiếm đóng. Năm 1950, tỉnh Đăk Lăk cử Đội công tác 124 về hoạt động trên địa bàn huyện, tiến hành xây dựng cơ sở ở xung quanh núi Nâm Nung.

Những năm 1954 - 1959, trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, huyện đã xây dựng được lực lượng cách mạng ở các thôn, bon của đồng bào M’Nông: phát triển được 5 chi bộ, mỗi chi bộ có từ 7 đến 11 đảng viên ở 05 xã trong huyện và một số cơ sở quần chúng. Ban Cán sự huyện kết hợp với đội công tác tuyên truyền, vận động thành lập được một số tiểu đội, trung đội du kích người dân tộc M’Nông để chiến đấu chống Pháp. Đây là những lực lượng tiền thân của Huyện đội Đăk Mil sau này.

Từ năm 1959, khu vực Nâm Nung trở thành khu căn cứ của lực lượng cách mạng trên địa bàn Đăk Mil. Trong khu vực căn cứ này, 3 trung đội du kích, gồm 150 thanh niên M’Nông anh dũng chiến đấu bảo vệ được căn cứ trong nhiều năm liền.

Trong thời kỳ chống Mỹ, huyện Đăk Mil có giai đoạn được gọi là K63, có giai đoạn gọi là K2, từ năm 1972–1975 gọi là H8. Trước năm 1959 Huyện Đăk Mil trực thuộc Tỉnh ĐăkLăk. Năm 1959–1971 trực thuộc Tỉnh Quảng Đức. Năm 1972 đến đầu năm 1975 trực thuộc Tỉnh Đăk Lăk.

Năm 1968-1972 kết hợp với lực lượng chủ lực, bộ đội địa phương Tỉnh và Huyện cùng với lực lượng du kích đánh nhiều trận, đặc biệt là đánh vào trung tâm biệt kích Đăk Săk diệt hàng trăm tên địch. Với chiến thắng đó, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã tặng quân và dân H8 Huân chương Quân công giải phóng hạng II.

Từ cuối năm 1973 sang năm 1974 quân ngụy không ngừng tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ Đức Lập nhằm ngăn chặn lực lượng ta thông đường vận tải Hồ Chí Minh từ Bắc vào Lộc Ninh qua Đức Lập. Tại đây địch tăng cường một trung đoàn bộ binh của sư đoàn 23 nguỵ, 2 tiểu đoàn dù, 01 trung đoàn thiết giáp, 01 tiểu đoàn lựu pháo, ngoài ra còn có liên đội bảo an 271 trực thuộc tiểu khu Gia Nghĩa chốt từ Núi lửa đến ngã ba Đăk Song.

Vào lúc 5 giờ 55 phút sáng ngày 9/3/1975, Sư đoàn 10 và sư đoàn 316 bộ đội chủ lực phối hợp với bộ đội địa phương và lực lượng du kích của huyện đã đồng loạt nổ súng đánh vào quận lỵ Đức Lập. Trung đoàn 66 bộ đội chủ lực và lực lượng du kích tiến công tiêu diệt Tiểu đoàn 1, trung đoàn 53 ngụy ở ngay phía Nam quận lỵ. Trung đoàn 28 đánh chiếm căn cứ Núi lửa. Ngày 10/3/1975, Sư đoàn 10 mở đợt tiến công thứ 2 vào Đức lập, chiếm được quận lỵ, giải phóng hoàn toàn Đức Lập. Chiến thắng Đức Lập đã góp phần đẩy mạnh khí thế tiến công và nổi dậy của toàn chiến trường, mở ra một bước ngoặt quan trọng trong chiến dịch Tây nguyên, chiến dịch Hồ Chí Minh.

Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều cá nhân, đơn vị trên địa bàn huyện Đăk Mil đã được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: 3 Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba, 2 Huân chương Quân công giải phóng hạng Nhì và gần 300 Huân chương, Huy chương các loại. Huyện có 2 bà mẹ Việt Nam Anh hùng và một xã Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 2000, huyện Đăk Mil vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong chiến tranh biên giới Tây Nam, được sự chi viện của Trung ương, của Tỉnh, quân và dân trong Huyện đã huy động hàng ngàn ngày công để rào làng, cắm chông, cài mìn, bảo vệ an toàn biên giới Tổ quốc, tham gia đánh nhiều trận chống bọn phản động Pôn pốt, Iêng Xari, diệt nhiều tên, thu nhiều vũ khí bảo vệ an toàn biên giới cũng như tính mạng và tài sản cho nhân dân.

Huyện Đăk Mil ngày nay là vùng sinh sống của dân tộc M’ Nông, là một dân tộc thiểu số tại chỗ đặc trung vùng Tây nguyên với truyền thống sản xuất và sinh hoạt mang tính văn hóa hết sức đặc sắc: Những lễ hội văn hoá dân gian như Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mùng mùa, Lễ bỏ mả, những món ẩm thực: Cơm lam, rượu cần. Những điệu múa cổ truyền, nhạc cụ dân tộc (cồng chiêng) và kiến trúc cổ truyền nhà sàn, nhà dài sống chung nhiều thế hệ.

Đặc biệt, Đăk Mil là nơi phát hiện đầu tiên hình thức văn hoá dân gian là "sử thi" đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước xem như là một thể loại văn học truyền miệng có quá trình văn hoá - lịch sử lâu đời đặc trung của vùng Tây Nguyên, là viên ngọc quý trong kho tàng văn học và truyện cổ dân gian của Việt Nam được Nhà nước công nhận. Với những câu chuyện mang đậm nét thần thoại về các hiện tượng tự nhiên, về đấu tranh chế ngự thiên nhiên, ca ngợi những đức tính tốt đẹp, yêu tự do, lòng dũng cảm, phản kháng áp bức, bóc lột…



Địa hình Đăk Mil có độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển, vùng phía bắc huyện từ 400–600 m và phia nam huyện từ 700–900 m, phần lớn địa hình có dạng đồi lượn sóng nối liền nhau bị chia cắt bởi nhiều sông suối nhỏ và các hợp thuỷ, xen kẻ là các thung lũng nhỏ, bằng, thấp. Có hai dạng chính hình dốc lượn sóng nhẹ: Có độ dốc từ 0-150, phân bố chủ yếu ở phía Đông và khu vực trung tâm của huyện, chiếm khoảng 74,6% diện tích tự nhiên và địa hình dốc chia cắt mạnh: Có độ dố > 150, phân bố ở phía Tây Bắc và phía Tây Nam của huyện chiếm khoàng 25,4% diện tích tự nhiên.

Đăk Mil là khu vực chuyển tiếp giữa hai tiểu vùng khí hậu Đắk Lăk và Đắk Nông, chế độ khí hậu mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả năm; mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng 3 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ bình quân 22,30C, ẩm độ không khí bình quân năm là 85%, tổng tích ôn 7.2000C, lượng mưa bình quân 2.513mm. Điều kiện khí hậu nói trên thichs hợp với nhiều loại cây trồng vật nuôi vùng nhiệt đới có giá trị cao.

Chế độ nhiệt: Tổng nhiệt độ < 80000C. Nhiệt độ cao nhất trong năm: 34,90C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm: 19,30C. Nhiệt độ trung bình hàng năm: 22,30C.

Chế độ mưa: Lượng mưa truing bình hàng năm: 1.700-18.00mm. Lượng mưa cao nhất (tháng 9): 297,2mm. Lượng mưa thấp nhất (tháng 1): 1,00mm. Số ngày mưa trung bình hàng năm: 170 ngày.

Chế độ ẩm: Độ ẩm bình quân hàng năm: 85%. Độ bốc hơi: Mùa mưa chỉ số độ ẩm k=1,0-1,5, mùa khô k=0,5.

Chế độ gió: Hướng gió thịnh theo hai hướng gió chính: Gió Tây – Nam xuất hiện vào các tháng mùa mưa, tốc độ trung bình 1,97 m/s. Gió Đông - Bắc xuất hiện vào các tháng mùa khô, tốc độ trung bình 2,24 m/s.

Thuỷ Văn: hệ thống nước mặt khá phong phú, mật động sông suối bình quân 0,35-0,40lm/ km² và là nơi bắt nguồn của hai hệ thống sông suối chính là hệ thống dầu nguồn sông Sêrêpôk và hệ thống đầu nguồn sông Đồng Nai, tuy nhiên nguồn nước mặt phân bổ không đều: Khu vực phía Nam và Tây Nam của huyện có nguồn nước khá phong phú với hệ thống sông suối, hồ đập khá dày đặc như Hồ Tây, Đăk Săk, hồ Đăk Per…và hệ thống đầu nguồn sông Sêrêpôk; Bao gồm các suối Đăk Ken, suối Đăk Sor và suối Đăk Mâm chiếm 75% lưu vực trên lãnh thổ huyện. Khu vực phía Bắc và Đồng Bắc nguồn nước khá khan hiếm, khu vực này mật độ sông suối thấp, hệ thống hồ đập ít vì vậy thường thiếu nước mùa khô làm ảnh hưởng đến cây trồng. Nguồn nước ngầm: Nước ngầm trên địa bàn huyện Đăk Mil tương đối phong phú, nhưng chủ yếu vận động tàng trữ trong tạo thành phun trào basalt, được coi là đơn vị chứa nước có triển vọng hơn cả. Tuy nhiên do mức độ đất đồng nhất theo diện tích và chiều sâu khá lơn nên cần lưu ý khi giải quyết những vấn đề cụ thể. Đặc biệt ở khu vực này có hiện tượng mất nước (nước tầng trên chảy xuống tầng dưới) nên khi khai thác cần phải nghiên cứu cụ thể để đề xuất các chỉ tiêu hợp lý nhằm khống chế đến mức thấp nhất việc làm ô nhiễm môi trường nước ngầm.

Cũng theo kết quả phân tích, đánh giá thì chất lượng nguồn nước ngầm hầu hết đảm bảo cho ăn uống sinh hoạt (nước có tổng độ khoáng nhỏ, thuộc loại siêu nhạt; m<0,2g/l, nồng độ các vi nguyên tố nhỏ và đều năm trong giới hạn cho phép). Đây là yếu tố thuận lợi trong việc cung cấp nước sạch nông thôn và cũng cần chú ý đến công tác tuyên truyền để người dân có ý thức trong việc bảo vệ nguồn nước.



Kết quả điều tra của Phân viện điều tra quy hoạch và thiết kế - Bộ Nông nghiệp cho thấy: Đăk Mil là huyện có diện tích đất khá phong phú và màu mỡ (phần lớn là đất Basalt) thuận tiện cho việc phát triển các loại cây công nghiệp nhiệt đới có giá trị cao.

Huyện Đăk Mil nằm trong vùng hội tụ của hai luồng thực vật với hai loại hình rừng


Rùng nửa rụng lá: Điển hình là Bằng lăng (Lagerstromea.Sp), Căm xe (Xylia Dlarfriformis), Dầu (Dipterocarpu.Sp), Gáo vàng…phân bố ở các vùng ẩm, tầng đất sâu. Loại rừng này có khả năng tái sinh kém, hầu hết phục hồi sau khi bị phá làm rẫy là loại cây tái sinh ưu sáng mọc nhanh.

Rừng khộp: Gồm các loại cây họ dầu chiếm ưu thế (Dipterocarpaceae) như các chi: Dipterocarpus; Shorea; pentamea; Xylia, Hopea; Terminalia…loại rừng này có đặc điểm là cây tái sinh mạnh chịu được điều kiện khắc nghiệt như khô hạn, lửa rừng…và có thể tồn tại trên vùng lập địa xấu.

Tài nguyên khoáng sản của Đăk Mil qua các tài liệu điều tra nghiên cứu, có hai loại khoáng sản chính:


  • Đá xây dựng: Mở đá bazan đã được thăm dò và khai thác tại xã Đăk R’la là mở Đô Ry, chất lượng đá có hàm lượng SO3 nhở, các thành phần khác đều đạt TCVN, tính chất cơ lý tốt có thể sử dụng làm đá xây dựng với các sản phẩm đá chẻ; đá hộc; đá rải đường; bê tông nhựa; bê tông xi măng. Trữ lượng mở Đô ru là 4,5 triệu m3, sản lượng khai thác bình quân 40.000m3 - 50.000m3 /năm. Ngoài ra, hiện còn 4 mở quy mô nhỏ đang được khai thác tại các xã Đăk Lao (02 mỏ), Đăk N’Drot (01 mỏ) và Đức Mạnh (01 mỏ).

  • Mỏ Bauxit từ Thuận An kéo đến Đăk R’la: Hiện đã được khoanh vùng và đang tiến hành thăm dò tìm kiếm và đánh giá sơ bộ về trữ lượng và chất lượng quặng.

  • Ngoài ra, qua thăm dò đã phát hiện trên địa bàn xã Đăk Găn có mở đá quý (Opan – Caxeđoan) với địa tầng chứa quặng tồn tại trong tầng Bazan, đang tiến hành thăm dò tìm kiếm và đánh giá sơ bộ về trữ lượng và chất lượng quặng.


Comments

Popular posts from this blog

Axit cacboxylic – Wikipedia tiếng Việt

Công thức tổng quát của axit cacboxylic. Axit cacboxylic là một loại axit hữu cơ chứa nhóm chức cacboxyl, có công thức tổng quát là R-C(=O)-OH , đôi khi được viết thành R-COOH hoặc R-CO 2 H trong đó R- là gốc hydrocarbon no hoặc không no. Loại axit cacboxylic đơn giản nhất là no, đơn chức, ký hiệu R-COOH trong đó R- là gốc hydrocarbon thậm chí chỉ là 1 nguyên tử hydro. Liên kết hydro theo kiểu 2 phân tử (dimer). Axit cacboxylic có phân cực và chứa liên kết hydro và phải tốn nhiều năng lượng mới có thể phá vỡ liên kết này nên nhiệt độ sôi của axit cao hơn hẳn rượu tương ứng. Ví dụ rượu etylic C 2 H 5 OH sôi ở 78,3 °C còn axit axetic CH 3 COOH sôi ở 118 °C. Axit cacboxylic khá phổ biến trong tự nhiên và là một axit yếu. Trong môi trường nước nó bị phân li thành cation H + và anion RCOO − nhưng với tỉ lệ rất thấp. Ví dụ, với nhiệt độ trong phòng thí nghiệm thì chỉ có 2% axit axetic bị phân li. Axit formic (HCOOH) là axit cacboxylic no, đơn chức mạnh nhất. Tính axit yếu dần từ axi

Sân bay Gunsan – Wikipedia tiếng Việt

Sân bay Gunsan Căn cứ không quân Kunsan 군산공항 Mã IATA KUV Mã ICAO RKJK Gunsan Airport Kunsan Air Base Vị trí sân bay ở Hàn Quốc Vị trí Độ cao 9 m (29 ft) Tọa độ 35°54′14″B 126°36′57″Đ  /  35,90389°B 126,61583°Đ  / 35.90389; 126.61583 Thông tin chung Kiểu sân bay Dân sự / Quân sự Cơ quan quản lý Korea Airports Corporation Trang mạng gunsan.airport.co.kr Các đường băng Hướng Chiều dài Bề mặt m ft 18/36 2,743 9,000 Bê tông Thống kê (2007 [Tiếng Anh]) Hành khách 133,242 Nguồn: DAFIF [1] , Korea Airports Corp. [2] Sân bay Gunsan (tiếng Hàn: 군산공항 ) (IATA: KUV , ICAO: RKJK ) là một sân bay ở Gunsan. Trong năm 2007, 133.242 lượt khách sử dụng sân bay này. Sân bay có cùng đường băng với Căn cứ không quân Kunsan , sử dụng cùng mã IATA và ICAO. Mục lục 1 Các hãng hàng không và điểm đến 2 Xem thêm 3 Liên kết ngoài 4 Tham khảo 5 Tham khảo Các hãng hàng không và điểm đến [ sửa | sửa mã nguồn ] Hãng hàng không Các điểm đến Chuyến bay mỗi tuần Korean Air Jeju 10 Eastar Jet Jeju 7 Căn c

Thái Bá Du – Wikipedia tiếng Việt

Thái Bá Du (1521-1602) là một danh thần thời Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông là một võ tướng lập nhiều công trạng cho triều đại này trong cuộc chiến Lê-Mạc phân tranh. Ông được triều đình phong tặng danh hiệu Thái phó Chân Quận công Trung đẳng Đại vương . Chân Quận công Thái Bá Du sinh năm Tân Tỵ ([1521] đời vua Lê Chiêu Tông), nguyên quán tại xứ Yên Trường, huyện Lương Sơn, thuộc Châu Hoan, Đại Việt (nay thuộc xã Yên Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An). Ông là con trai trưởng của Chưởng vệ sự Thắng Sơn hầu Thái Bá Tộc. Nguyên tổ của ông là Thái Bá Đội, từ Vân Nam (Trung Quốc), đến ngụ ở Đông Triều vào năm 1350. Đời sau của dòng họ nổi tiếng là danh tướng của triều Lê Trung hưng. Ông nội ông là Thiên tổng binh sứ trấn Nghệ An, Thiên Khánh hầu Thái Bá Lịch. Bác ruột của ông là Thái Quang Trị cũng làm đến chức Vệ úy của triều Lê. Xuất thân trong gia tộc làm tướng, ông được thừa hưởng sự giáo dục của gia đình về nghiệp binh. Thời trẻ, ông theo gia phụ Thái Bá Tộc chinh chiến trấn áp c